VẤN ĐỀ TƯ DUY - KỲ II: MỘT SỐ KHÁI NIỆM CỦA TƯ DUY.


Bài đọc liên quan:

VẤN ĐỀ TƯ DUY - KỲ I: TƯ DUY LÀ GÌ?

VẤN ĐỀ TƯ DUY - KỲ III: TƯ DUY CỦA NGƯỜI BÌNH THƯỜNG

- VẤN ĐỀ TƯ DUY - KỲ IV: TƯ DUY THÔNG MINH

Trước khi đi vào sâu hơn vấn đề tư duy, chúng ta cần hiểu rõ các khái niệm cơ bản nền tảng trong tư duy. Những khái niệm này rất đa dạng từ quá trình tâm lý đến cảm xúc, lý trí, ý chí, nhận thức...

Các khái niệm

Quá trình tâm lý: là những hiện tượng tâm lý diễn ra trong thời gian tương đối ngắn, có mở đầu, diễn biến và kết thúc tương đối rõ ràng. Quá trình tâm lý gồm các quá trình sau:

+ Nhận thức: là quá trình hiểu biết của bản thân với sự vật hiện tượng khách quan tác động vào bản thân chủ thể(cảm giác, tri giác, biểu tượng, trí nhớ, tưởng tượng, tư duy).

+ Cảm xúc: là những rung cảm của bản thân khi nhận thức thế giới bên ngoài từ đó biểu thị thái độ đối với những sự vật hiện tượng khách quan bên ngoài.

+ Ý chí: là quá trình lý trí điều khiển, hành động của bản thân nhằm cải tạo thế giới, thỏa mãn yêu cầu cá nhân và xã hội (không chỉ điều khiển cá nhân mà cả thế giới bên ngoài).

Vì vậy Đời sống tâm lý luôn phải cân bằng 3 yếu tố nhận thức, cảm xúc và ý chí. Nếu thiên về lý trí con người sẽ thiếu tình cảm, tâm hồn khô khan. . Nếu thiên về cảm xúc con người sẽ thiếu sáng suốt.

Thiếu ý chí thì tình cảm con người không thể biến thành hành động. (ví dụ: Đi dọc đường thấy quán hủ tiếu thấy thèm nên ghé vào ăn. Lúc gặp người già đi ăn xin thấy thương cảm nên cho tiền)

Thuộc tính bản chất: là sự tổng hợp tất cả các mặt, các mối liên hệ mang tính cơ bản, tất nhiên, ổn định bên trong sự vật chi phối sự vận động và phát triển của nó để phân biệt giữa sự vật này với sự khác.

Đặc tính vốn có của một sự vật, nhờ đó sự vật tồn tại và qua đó con người nhận thức được sự vật, phân biệt được sự vật này với sự vật khác.

Màu sắc là một thuộc tính của mọi vật thể. (ví dụ: Thuộc tính bản chất của con người đó chính là biết chế tạo và sử dụng các công cụ lao động, có ngôn ngữ, có quan hệ xã hội. Gừng phải cay, muối phải mặn…).

+ Nhận thức cảm tính hay còn gọi là trực giác là: phản ánh một cách trực tiếp các đối tượng bên ngoài sự vật, hiện tượng thông qua các giác quan vào bộ não của con người (màu sắc, kích thước, khối lượng, âm thanh, mùi, vị, bề mặt, nhiệt độ,…). Nhận thức cảm tính mang tính chủ quan nên thường không chính xác.

+ Nhận thức lý tính là lý trí: được nảy sinh từ nhận thức cảm tính. Nó phản ánh một cách gián tiếp, trừu tượng, khái quát, sâu sắc, những đặc điểm, tính chất, quan hệ bên trong của sự vật (đặc tính, tính chất, công dụng) vào trong bộ não con người có suy nghĩ và được biểu đạt bằng ngôn ngữ. Mang tính khách quan nên thường chính xác.

+ Mối liên hệ giữa cảm tính và lý tính: là sự tác động (ràng buộc, thâm nhập,…) lẫn nhau mà sự thay đổi cái này tất yếu sẽ dẫn đến sự thay đổi của cái kia. (ví dụ: mối liên hệ giữa bản chất và hiện tượng, khi bản chất thay đổi thì hiện tượng sẽ thay đổi, đồng thời hiện tượng sẽ tác động lại đối với bản chất).

+ Quy luật quan hệ không đổi: được biểu thị dưới dạng khái quát, giữa nhiều hiện tượng hoặc nhóm hiện tượng, là những mối liên hệ khách quan, có tính bản chất, tất nhiên, chung, lặp lại giữa các sự vật hiện tượng và chi phối mọi sự vận động, phát triển của nó. Ví dụ: Quy luật từ những sự thay đổi về lượng thành những sự thay đổi về chất và ngược lại là một trong những quy luật cơ bản nhất trong thế giới vật chất, tồn tại trong mọi sự vận động và phát triển.

+ Cái chưa biết: là sự chưa nhận thức hoàn toàn hay nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa biết chắc chắn, là quá trình nhận thức cảm tính của con người (là giai đoạn đầu để hình thành nên tư duy). Có thể xem chưa biết có hai dạng như sau:

• Chưa biết không tư duy: sự hoàn toàn chưa nhận thức, xa tầm hiểu biết. Ví dụ: Một đứa trẻ lớp 1 sẽ hoàn toàn không nhận thức được một bài toán lượng giác của lớp 10.

• Chưa biết có tư duy: sự nhận thức chưa đầy đủ, chưa rõ ràng, chưa biết chắc chắn.
Vd: Ca dao có câu: “Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng, Ngày tháng mười chưa cười đã tối.” Thực chất người ta chỉ biết vào những ngày của tháng nào thì trời sẽ sáng lâu hay tối lâu. Nhưng không hề biết vào những tháng này thì trục của Trái đất bị lệch nhiều nhất và làm cho một bán cầu nhận ánh sáng nhiều nhất hay ít nhất.
Phát triển tư duy:

+ Phải xem trọng việc phát triển tư duy. Vì nếu không có khả năng tư duy thì không thể học tập, không thể hiểu biết, không cải tạo được tự nhiên, xã hội và rèn luyện bản thân.

+ Phải đặt cá nhân vào tình huống có vấn đề để kích thích tính tích cực của bản thân, độc lập sáng tạo khi giải quyết tình huống có vấn đề.

+ Phải rèn luyện học tập nâng cao nhận thức để phát triển khả năng tư duy tốt, chính xác.

+ Phải tăng cường khả năng trừu tượng khái quát.

+ Phải thường xuyên quan sát tìm hiểu thực tế, rèn luyện cảm giác, tính nhạy cảm, năng lực trí nhớ, nhằm nâng cao nhận thức cảm tính để sau đó rút ra nhận thức một cách lý tính, có khoa học.

+ Phải trau dồi vốn ngôn ngữ, vì ngôn ngữ là cái vỏ thể hiện của tư duy và thông qua đó mới biểu đạt tư duy của bản thân cũng như lĩnh hội tư duy của người khác.

+ Tích cực trong nhiều hoạt động và các mối quan hệ giao tiếp.

Vấn đề sai sót trong tư duy:

Bên cạnh đó, cũng có những sai sót trong tư duy mà chúng ta cần tránh. Sai sót trong tư duy có khi là hiện tượng tâm lý bình thường nhưng cũng có khi sai sót do bệnh lý.

Là những sai sót thuộc về kết quả tư duy (phán đoán, suy lý không chính xác, sự hiểu biết khái niệm không đầy đủ), hoặc về hình thức thao tác của tư duy (không biết tư duy trừu tượng, sai sót trong phân tích, tổng hợp vấn đề, thiếu mềm dẻo, …)

Sai sót của tư duy có quan hệ chặt chẽ với những sai sót của các quá trình tâm lý khác nhất là ý thức, cảm xúc, chú ý, năng lực, vốn hiểu biết.

Sau đây là một số sai sót của tư duy có liên quan đến quá trình bệnh lý của người bệnh:

● Sự định kiến trong Phật học gọi là Chấp Ngã: là kết quả tư duy về những sự vật hiện tượng có thực nhưng cá thể cố gán cho nó một ý nghĩa khác quá mức, không đúng như vốn có của nó và ý tưởng này chiếm ưu thế trong ý thức, tình cảm,…của người đang được sự vật hiện tượng tác động. Ví dụ: người quá cường điệu về khuyết điểm của mình, tự ty, mặc cảm… Định kiến nặng cũng dẫn đến bệnh lý.

● Ý tưởng ám ảnh hoặc còn gọi là tự kỷ ám thị, trong Phật học gọi là tập trung trì chú điều không có thật: Là người có những ý tưởng không phù hợp với thực tế khách quan. Ví dụ: Người luôn có ý nghĩ rằng mình có lỗi hoặc xúc phạm với người khác,… nhưng trong thực tế thì không phải như vậy. Ý nghĩ này có khi người đó biết là sai và tự đấu tranh để xua đuổi nó nhưng không được. Ý tưởng ám ảnh thường gắn với những hiện tượng ám ảnh khác, như lo sợ ám ảnh, hành vi ám ảnh. Ám ảnh nặng sẽ đi đến bệnh lý.

● Hoang tưởng: Là những ý nghĩ, phán đoán sai lầm, không phù hợp với thực tế, nặng nề sẽ gây ra bệnh tâm thần. Ví dụ: Bệnh nhân luôn có ý nghĩ mình bị truy hại, bị nhiều bệnh hoặc mình là người vĩ đại,… những ý nghĩ này sẽ mất đi khi bệnh khỏi hoặc thuyên giảm trong các bệnh tâm thần.

Tư Gia, 7:00, 02 July, 2020

Đăng nhận xét

0 Nhận xét